Tú Mỡ tên thật là Hồ Trọng Hiếu, sinh ngày 14 tháng 3 năm 1900 tại phố Hàng Hòm (Hà Nội).
Ông chuyên về lối thơ trào phúng, dí dỏm mà sâu sắc, từ ngữ điêu luyện. Từ năm 1936, ông cộng tác với báo Phong hóa, Ngày nay, và nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Đến Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, ông tích cực tham gia sinh hoạt trong Hội Văn học Nghệ thuật, góp phần công sức của mình vào xây dựng nền văn hóa mới.
TÁC PHẨM:
Giòng nước ngược - tập I (Thơ, Đời Nay, 1934) Giòng nước ngược - tập II (Thơ, Đời Nay, 1941) Rồng nan xuống nước (Tuồng, 1942) Bà Túng (Truyện thiếu nhi, Đời Nay, 1942) Vụ kiện trê cóc (Truyện thiếu nhi, Đời Nay, 1942) Giòng nước ngược - tập III (Thơ, Đời Nay, 1945) Địch vận diễn ca (Diễn ca, 1949) Nụ cười kháng chiến (Thơ, 1952) Anh hùng vô tận (Thơ, 1952) Bước đầu viết chèo (Biên khảo,1952) Trung du cười chiến thắng (Thơ, chèo, hát xẩm, 1953) Tấm Cám (Chèo, 1955) Nhà sư giết giặc (Chèo, 1955) Dân tộc vùng lên (Diễn ca, 1959) Nụ cười chính nghĩa (Thơ, 1958) Bút chiến đấu (Thơ, 1960) Đòn bút (Thơ, 1962) Ông và cháu (Tập thơ thiếu nhi, 1970) Thơ Tú Mỡ (Tập thơ tuyển, 1971)
Bác kia, ruộng cả ao liền Lắm bạc, nhiều tiền, chạy tước, mua danh Bài ngà với áo thụng xanh Súng sa súng sính như anh phường chèo Về làng khao vọng ỉ eo Ăn trên, ngồi trốc, eo sèo thịt sôi Bây giờ cơ nghiệp đi đời Thẻ ngà, giấy sắc đem mài mà ăn
I
Lấy vợ khuyên ai kén vợ hiền
Kén người đức hạnh, bậc chân chuyên
Tốt duyên gặp được người như nguyện
Giá nọ nhà vàng đúc cũng nên
II
Lấy vợ khuyên ai kén vợ soàng
Cần chi giầu có với quan sang
Quý hồ nội trợ tề gia giỏi
Cái cảnh gia đình mới vẻ vang
III
Lấy vợ khuyên ai cốt chữ tình
Xin đừng vụ lợi, chớ ham danh
Mấy người tiểu kỷ vì danh lợi
Khó trọn cùng nhau nghĩa tử sinh
IV
Lấy vợ không nên kén vợ giầu
E rằng ỷ của lại khinh nhau
Hổ thay! cái tiếng nhờ lưng vợ!
Tiếng ấy anh hùng há chịu đâu!
V
Lấy vợ không nên lấy ả đầu
Hoa tàn, nhị rữa, tiết còn đâu
Chỉ quen nghề nghiệp nhà son phấn
Chẳng trách phương ngôn đã có câu...!
VI Lấy vợ không nên lấy vợ nhiều Một bà thôi cũng đủ thương yêu Ai về nhắn nhủ phường tham thịt Cả lẽ làm chi, tổ ỷ eo...!
Tặng bạn Nam Hương
(Thơ thất ngôn thập nhị cú)
Tú Mỡ, nghe tên rõ chướng phè
Làm thiên hạ tưởng béo xù ghê
Chẳng thua cụ Ỷ lườn nung núc
Cũng hệt ông Vâm bụng lặc lè
Mà hoá người thon như cái nhái Té ra mình sác tựa con ve Đôi hàng sườn sụn da căng sát Hai hũm quai xanh nước đỏ be
Màu mỡ vì chưng ra cả bút Thân hình nên mới ngẳng như que Tú này béo mép, người không béo Há phải như ai tướng lợn xề...!
Một thương tóc lệch đường ngôi, Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn san. Ba thương hôm sớm điểm trang, Bốn thương răng ngọc hai hàng trắng phau. Năm thương lược Huế cài đầu, Sáu thương ô lục ngả màu thanh thiên. Bảy thương lắm bạc nhiều tiền, Tám thương động tí nữ quyền giở ra. Chín thương cô vẫn ở nhà, Mười thương... thôi để mình ta thương mình...
Nhớ xưa còn thủa hàn vi Chàng thời đi học, thiếp đi chạy hàng Sớm hôm đầu đội vai mang Yên phận bần hàn, kiếm gạo nuôi nhau Lần hồi bữa cháo bữa rau Chàng lo học tập mai sau thành tài Công danh tiến bước kịp người Mở mặt với đời, thiếp cũng hiển vinh Bây giờ chàng đã nên danh Chê thiếp vụng dại, nỡ đành phụ công Khi nghèo còn vợ còn chồng Đến khi phú quí, chồng đông, vợ đoài
Rất sang quan phán đầu toà Ngất ngưởng xe nhà, chân bắt chéo khoeo Ắn chơi xa xỉ đến điều Đêm đêm nhà hát, chiều chiều cao lâu Ở nhà mặc cảnh túng, sầu Vợ, con, cha, mẹ cơm rau là thường Chầu rượu quan chi cực sang Tiền nuôi cha mẹ cưa gan từng đồng
(Thất ngôn thập bát cú)
Ở sở "Phi-Năng" có một thầy
Người cao dong dỏng lại gầy gầy
Mặc thường soàng sĩnh, ưa lành sạch
Ăn chỉ thều thào, thích tịnh chay
Tom chát quanh năm vài bốn bận
Say sưa mỗi tháng một đôi ngày
Tính vui trò chuyện cười như phá
Lòng thẳng căm hờn nói toạc ngay
Siên sỏ vào tay hơi khá khá
Ở ăn thì nết cũng hay hay!
Yêu người chân thật, người hào hiệp
Ghét kẻ chui luồn, kẻ quắt quay
Võ vẽ hay làm văn quốc ngữ
Sì sồ ít nói tiếng Âu Tây
Bạn mà bàn đến thi cùng cử
Thời vội van luôn: Tớ lạy mày!...
Bởi tính ngang phè như chánh bứa
Già đời chẳng được cái mề đay
1925