Một chứng bệnh ngọt ngào…
Bệnh tiểu đường loại II rất phổ biến trong giới bà con Việt Nam mình sống tại hải ngoại cũng như ở bên nhà, đặc biệt là những người từ 45 tuổi trở lên. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2003 có lối 194 triệu người bị bệnh tiểu đường. Số nầy có thể sẽ tăng gấp hai vào năm 2025.
Tại Canada, ước lượng có vào khoảng 1.8 triệu người bị bệnh tiểu đường loại II, tương đương với 8% dân số trưởng thành. Riêng tại Hoa Kỳ, có thể có đến 54 triệu người tuổi từ 45 đến 74 đang trong tình trạng tiền tiểu đường prediabetes và lối 8 triệu người bị bệnh diabetes thật sự.
“Trong báo JAMA số 20 ra ngày 27-5-2009, J.C.N. Chan và csv dựa vào các báo cáo bằng tiếng Anh từ tháng Giêng năm 1980 đến tháng Ba năm 2009 đã viết một bài tổng quan về tiểu đường loại 2 ở Á châu…
Theo các tác giả những yếu tố làm cho tiểu đường tăng nhanh ở Á châu là sự toàn cầu hóa với sự chuyển nhượng kỹ thuật và tăng trưởng kinh tế nhanh, sự thay đổi cách ăn và cách sống. Người Á châu ít vận động hơn trước, bị căng thẳng và thiếu ngủ hơn, hút thuốc lá, ăn mỡ và uống nước ngọt nhiều hơn, ăn gạo xay trắng, gạo của Việt nam có chỉ số đường từ 86-109. Nhiều genes tiểu đường mới được tìm thấy ở người da trắng cũng được xác nhận ở người Á châu.
Tỷ lệ bệnh tiểu đường ở Việt Nam đang tăng cao.
Theo thống kê trong 10 năm qua, Việt Nam nằm trong số quốc gia có tốc độ tăng bệnh nhân tiểu đường cao nhất thế giới. Nghiên cứu tại các địa phương cho thấy, toàn quốc hiện có khoảng 5 triệu bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường.
Giai đoạn dự báo Tiền tiểu đường (Prediabetes) đi trước, tiểu đường (Diabetes) lọt tọt theo sau.
Trước khi bệnh tiểu đường được chẩn đoán thật sự, chúng ta phải trải qua một giai đoạn xáo trộn tiêu hóa trong nhiều năm trước đó. Đây là tình trạng tiền tiểu đường (prediabetes).
Làm sao biết được mình đã bị prediabetes?
Tình trạng prediabetes không có một biểu hiện lâm sàng rõ rệt nào hết, nếu không thử máu để đo mức đường (glucose) của mình.
Tùy theo tình trạng của bệnh nhân mà bác sĩ cho thử loại test nào.
Có hai tests có thể được thực hiện:
+Test 1: Test glucose lúc bụng đói (Fasting Plasma Glucose Test)
Test thực hiện lúc sáng sớm sau khi bạn phải nhịn ăn qua đêm ít nhất 8 tiếng đồng hồ trước đó.
+Test 2: Test glucose sau khi ăn (Two hour oral glucose tolerance test hay glycémie provoquée)
Người ta cho bạn uống 75g glucose, bạn ngồi lại trong phòng chờ, và máu được rút ra để đo đường huyết sau đó 2 tiếng đồng hồ.
** Nếu bị prediabetes rồi, thì mỗi năm bạn cần phải được test lại để theo dõi sự tiến triển của nó. Trong giai đoạn nầy, bác sĩ chỉ khuyên bệnh nhân nên ăn uống cho kỹ lưỡng và nhớ tập thể dục đều đặn, nhưng chưa cần phải uống thuốc.
Tiểu đường loại 2 (Diabetes type 2)
Tiểu đường loại 2, là một bệnh mãn tính với biểu hiện chính là đường huyết rất cao vì tụy tạng tiết không đủ insulin cần thiết, hoặc đủ insulin nhưng nó lại bị đề kháng (insulin resistance) nên không còn hữu hiệu trong việc giúp hấp thụ đường glucose từ máu vào tế bào.
Mệt mỏi, mất cân, ăn nhiều (polyphagia), uống nước nhiều (polydipsia) và đi tiểu nhiều (polyuria) là những dấu hiệu chính của bệnh tiểu đường.
Nguy hiểm nhất là bệnh có thể gây những biến chứng về mắt (rétinopathie diabétique) đưa đến mù lòa, làm suy thận (insuffisance rénale), hoặc dẫn đến các bệnh lý về tim mạch (cardiopathies), về thần kinh (neuropathie diabétique) hoặc làm loét chân (ulcération des pieds) đưa đến việc cưa chân... Bệnh nhân chết vì các biến chứng của bệnh tiểu đường gây ra mà thường nhất là bị hư thận.
“Bệnh tiểu đường được định theo tiêu chuẩn của American Diabetes Association (ADA, Hiệp Hội Tiểu Đường Hoa Kỳ), bằng 1 trong 4 cách sau:
- Đường máu đo sau khi nhịn đói ít nhất 8 tiếng cao hơn 125 mg/dl
- Người bệnh có triệu chứng và đường đo lúc không nhịn đói thấy cao trên 200 mg/dl
- Oral glucose tolerance test (OGTT) bất thường: sau khi cho ăn đường glucose 1.75 g/kg (tối đa 75 g), 2 tiếng sau đo đường máu, thấy vẫn cao hơn 200 mg/dl
-Trị số HbA1C (biểu thị lượng đường trung bình trong máu chúng ta trong vòng 3 tháng qua) bằng hay cao hơn 6.5.
Có rất nhiều loại thuốc uống để kềm hãm đường huyết, và nếu trường hợp quá nặng thì cần phải chích insuline mỗi ngày. Đa số thuốc đều có phản ứng phụ (side effects) bất lợi. Tùy theo tình trạng sức khỏe của mỗi người cũng như sự hiện diện của biến chứng mà bác sĩ kê toa một loại thuốc nào đó, hoặc đổi thuốc khác, hoặc điều chỉnh liều lượng của món thuốc cho thích hợp hơn, v.v...
Có người cũng sử dụng thuốc thiên nhiên để giúp kéo đường huyết xuống phần nào, hư thật ra sao khó có ai biết được một cách chắc chắn hết.
Chỉ số đường huyết (Glycemic index, GI) là gì?
Từ lâu, chất bột đường glucide hay carbohydrate được xếp theo cấu trúc hóa học của chúng, nghĩa là theo chiều dài của chuỗi tinh bột amidon và theo tốc độ tiêu hóa và hấp thụ tại ruột non.
Tuy nhiên, người ta cũng ghi nhận rằng nhiều loại đường (mono, di, và polysaccharide) và thức ăn có glucides chẳng hạn như rau quả, ngũ cốc, sữa có thể làm tăng đường huyết một cách riêng biệt khác nhau.
Từ nhận xét trên, Gs David Jenkin, Canada là người đầu tiên đã nêu ra ý niệm chỉ số đường huyết vào năm 1981. Ý niệm nầy lần hồi đã thay thế ý niệm đường đơn giản (các loại đường tận cùng bằng OSE như fructose, saccharose,lactose,maltose…) và đường phức tạp (như cơm, gạo, ngũ cốc, rau, đậu, pasta…) đã lỗi thời.
Biết rằng đường đơn giản được chuyển thành glucose và được hấp thụ rất nhanh. Ngược lại, đường phức tạp phải cần sự tác động của vài loại enzymes để chuyển ra glucose vì vậy có sự hấp thụ chậm hơn đường đơn giản…
Các nhà khoa học cho biết sự thặng dư glucose trong máu khiến tụy tạng phải tiết ra thường xuyên insulin và tình trạng nầy sẽ đưa đến hiện tượng kháng insulin mà bệnh tiểu đường là hậu quả, và đồng thời cũng có thể có nhiều nguy cơ dẫn đến cancer (vú, ruột già, v.v...).
Chỉ số đường huyết là vận tốc chuyển hóa của một carbohydrate ra thành glucose để được hấp thụ vào máu. Một thức ăn có GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh. Vì vậy, các nhà dinh dưỡng khuyên chúng ta nên dùng những thức ăn nào có GI thấp để ngăn ngừa bệnh béo phì, bệnh tim mạch và tiểu đường loại II.
Trong thực tế, người ta thường pha trộn lẫn lộn các loại thức ăn có GI khác nhau trong các bữa ăn hằng ngày. Nhìn chung, các loại đường phức tạp như ngũ cốc, cơm gạo, bánh mì, pasta, spaghetti, và các loại rau cải xanh là những thực phẩm có chứa nhiều dưỡng chất và chất xơ.
Tùy theo cơ cấu sinh hóa (thí dụ gạo Basmati chứa nhiều đường amylose nên có GI thấp hơn gạo trắng hạt dài, là thứ gạo chúng ta ăn hằng ngày); tùy theo cách biến chế nấu nướng (nhiệt độ làm thay đổi phân tử amidon), như khoai Tây nấu chín trong nồi có GI thấp hơn khoai Tây đút lò; khoai Tây luộc nghiền nhuyễn (mashed potatoes, flocon de pomme de terre) có GI cao hơn GI khoai Tây nguyên củ; carotte tươi có GI thấp hơn GI carotte nấu chín, tùy số lượng chất xơ hòa tan (soluble fiber), tùy theo tỉ lệ proteine, chất xơ và chất béo trong thực phẩm, v.v…
Bởi những sự khác biệt kể trên cũng như sự thiếu tiêu chuẩn hóa trong việc đo lường một thực phẩm có glucide mà vấn đề chỉ số đường huyết GI vẫn còn là đề tài tranh cãi giữa các nhà khoa học với nhau. Họ đưa ra giả thuyết, một GI cao làm tăng đường huyết lên và làm trầm trọng hơn hiện tượng đề kháng insuline (résistance à linsuline). Sự xáo trộn nầy sẽ dẫn tới hiện tượng bất dung nạp glucose (glucose intolérance)
Có người cho rằng một chế độ dinh dưỡng gồm có GI cao và nghèo chất xơ sẽ làm tăng sự đề kháng glucose và đề kháng insuline và từ đó dẫn đến bệnh diabetes type 2.
Tóm lại, một thức ăn có:
-GI thấp: nếu dưới 55
-GI trung bình: từ 56-tới 69
-GI cao: từ 70 trỡ lên
Tải lượng đường huyết (charge glycémique, glycemic load hay GL) là gì?
Ý niệm rất mới mẻ trong dinh dưỡng và được các nhà khoa học của Đại học Harvard đưa ra năm 1997.
GL bổ túc cho chỉ số đường huyết GI.
Tải lượng đường huyết GL có tác dụng ước định khả năng làm tăng đường huyết của một phần chuẩn (par portion, per serving) của một thức ăn nào đó.
Người ta tính GL bằng cách lấy GI nhân cho số lượng glucides (g) chứa trong phần chuẩn của sản phẩm, sau đó chia cho 100:
GL= GI x quantity glucides (g) per serving/100
Thí dụ: 1 serving cereal corn flake 30g có GI 82 và có chứa 25g glucide. GL của nó sẽ là
25 x 82/100 = 20,5
Tóm lại, GI là thước đo chất lượng của glucides và GL là thước đo số lượng của glucide hiện diện trong một thức ăn.
Tải lượng GL của một phần chuẩn (per serving) thức ăn:
- GL thấp nếu dưới 10
- GL trung bình từ 11 đến 19
- GL cao nếu từ 20 trở lên
Tải lượng GL trong một ngày:
- thấp nếu dưới 80
- cao nếu từ 120 trở lên
Tiêu thụ thức ăn có GI cao mà đồng thời chứa ít chất xơ thì rất dễ làm xáo trộn đường huyết. Lâu ngày có thể làm tăng nguy cơ làm xuất hiện bệnh tiểu đường loại II và bệnh tim mạch.
Ý niệm tải lượng đường huyết GL được nhiều nhà dinh dưỡng ưa chuộng hơn ý niệm chỉ số đường huyết GI, vì lý do GL phản ảnh đồng thời số lượng và chất lượng của glucide trong một thức ăn.
Revised International Table of Glycemic Index (GI) and Glycemic Load (GL) Values—2008
By David Mendosa
Glycemic Index & Glycemic Load Rating Chart (By Mendosa)
Chỉ số đường huyết GI của một vài loại thực phẩm.
+Thức ăn chuẩn là Glucose có GI = 100
Các loại thức ăn có GI thấp hơn 55:
Đậu nành - đậu phọng (15), đậu xanh (30), đậu trắng (38), đậu đỏ (40), sữa (30), yogurt (35), cam (40), táo pomme (39), biscuit khô (55), bột lúa yến mạch oat (50), bún (35), gạo Basmati có nhiều amylose (55), carotte tươi (35), fructose hay đường trái cây (20), gạo lứt Brown rice(50) - đậu petit pois - khoai lang - bánh mì multigrain - pain au son (45), rau cải xanh - tomate - cà tím, ớt xanh - hành tỏi - nấm rơm (10), bưởi (22), cam (43), trái lê (36), khoai mỡ (51), xoài (55), trái peach tươi (28), nước trái pomme (48), nho tươi (43).
+Thức ăn có GI trung bình 56 - 69:
Càrem (59), nước cam lon (65), chuối (62), đu đủ (60), pain blé entier - wholemeal bread (69), trái kiwi (58), nho khô (64), đường cát sucrose - saccharose (65), khóm (66).
Thức ăn có GI cao trên 70:
Carotte chín (85), pain blanc (70), cơm trắng gạo hạt dài (trên 72) chứa ít amylose, gạo tấm broken rice (86), nếp (98), các loại cereal - cornflakes (80), mật ong ( 90), Pepsi Coca (70), riz instantané (90), maltose beer (110), khoai Tây chiên fries hoặc khoai đút lò (95), khoai nấu chín (70), dưa hấu (72), bí rợ (75), corn chip (72), bánh biscuit khô cracker (78), bánh mì baguette (95), Gạo thơm Jasmine long grain white rice(109) của Thái Lan và Việt Nam.
- Vậy nếu chúng ta đang có vấn đề bị chao đảo đường huyết thì nên chọn những loại thực phẩm nào có chỉ số đường huyết GI thấp mà dùng để đường huyết tăng chậm.
Ví dụ: Gạo Basmati (55), gạo lứt Brown rice (50)
*Tránh ăn quá nhiều chất bột đường có GI cao trên 72 chẳng hạn như cơm trắng hạt dài, gạo chín nhanh, cơm tấm, xôi nếp, khoai tây đút lò, bánh mì baguette, carotte nấu chín, và bia...
Kết luận
Người bị tiểu đường cần phải thay đổi nếp sống, kiêng cử các loại thức ăn ngọt, nước ngọt có gaz, bớt cơm, xôi chè, bánh trái chế biến từ bột tinh chế. Cần tránh thức ăn chứa nhiều mỡ dầu, ngoài ra cũng cần phải kiên trì vận động tập thể dục thường xuyên mỗi ngày.
Một chế độ dinh dưỡng thích nghi có nghĩa là ăn nhiều rau cải trái cây, đậu, hạt dẻ, thực phẩm làm từ bột thô không tinh chế (unrefined complex carbohydrate), giảm việc ăn thịt đỏ (heo, bò) và thay thế bằng thịt trắng như thịt gà hay cá. Ngoài ra, cần nên tránh ăn nhiều dầu mỡ và muối.
Cho đến hôm nay thì phía Tây y vẫn khẳng định là bệnh tiểu đường không thể nào trị dứt được. Bệnh chỉ có thể được kiểm soát (control), nghĩa là giữ đường huyết ở một mức có thể chấp nhận được mà thôi, bằng cách theo đuổi một nếp sống lành mạnh như kiêng ăn, vận động, tập thể dục, giảm cân, bỏ thuốc lá, và mỗi ngày phải uống các loại thuốc Tây hạ đường huyết hoặc chích insulin suốt đời.
Sưu tầm