Nguồn gốc
Di tích còn được biết đến với nhiều tên gọi khác, như Dinh Norodom, Dinh Thống đốc, Dinh Toàn quyền, Dinh Độc Lập, Hội trường Thống Nhất.
Dinh Norodom thời Pháp thuộc
- Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh xâm chiếm Việt Nam.
- Năm 1867, Pháp chiếm xong lục tỉnh Nam kỳ (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).
- Tháng 12 năm 1861, Dinh thự gỗ đầu tiên được xây dựng vào tháng 12 năm 1861 tại cuối đường Catinat (Tự Do), bên cạnh Quảng trường Đồng hồ, vật liệu được nhập từ Singapore. Nơi đây vừa là dinh thự, văn phòng, phòng họp của Thống Đốc. Bản vẽ của toà nhà gỗ đã được xuất bản trong cuốn Iconographie Hystorique de L’indochine Française năm 1931, tác giả Paul Boudet và André Masson. (Năm 1873, dinh cũ bằng gỗ này được Cha Henri de Kerlan dùng làm trường học mang tên Tabert. Vào năm 1890, nó được xây dựng lại thành toà nhà ba tầng).
- Ngày 23 tháng 2 năm 1868, ông Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière đã làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng Dinh Thống đốc Nam Kỳ mới tại Sài Gòn thay cho dinh cũ bằng gỗ bị nhiễm mối. Dinh mới được xây dựng theo đồ án do kiến trúc sư Hermite phác thảo (người phác thảo đồ án Tòa thị sảnh Hongkong). Viên đá lịch sử này là khối đá lấy ở Biên Hòa, hình vuông rộng mỗi cạnh 50 cm, có lỗ bên trong chứa những đồng tiền hiện hành thuở ấy bằng vàng, bạc, đồng có chạm hình Napoleon đệ tam.
Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12 ha, bao gồm một dinh thự lớn với mặt tiền rộng 80 m, bên trong có phòng khách chứa 800 người, và một khuôn viên rộng với nhiều cây xanh và thảm cỏ. Phấn lớn vật tư xây dựng dinh được chở từ Pháp sang. Do chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870 nên công trình này kéo dài đến năm 1871 mới xong. Sau khi xây dựng xong, dinh được đặt tên là Dinh Norodom và đại lộ trước dinh cũng được gọi là đại lộ Norodom, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834-1904).
- Từ 1871 đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên gọi là Dinh Thống đốc.
- Từ 1887 đến 1945, các Toàn quyền Đông Dương (Gouverneur-général de l'Indochine Française) đã xử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc nên dinh gọi là Dinh Toàn quyền. Nơi ở và làm việc của các Thống đốc chuyển sang Dinh Gia Long gần đó. Tuy nhiên, Dinh chỉ được xử dụng làm nơi làm việc cho Toàn quyền Đông Dương cho đến năm 1906. Khi Phủ Toàn quyền ở Hà Nội được xây dựng xong thì các Toàn quyền và hầu hết bộ máy giúp việc dời ra Hà Nội. Nơi đây chỉ còn lại các cơ quan thuộc Phủ Toàn quyền (cơ quan liên bang) đặc trách ở Nam Kỳ. Mặc dù vậy dân gian vẫn quen gọi đây là Dinh Toàn quyền.
- Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9 năm 1945, Nhật thất bại trong Thế chiến thứ hai, Pháp trở lại chiếm Nam bộ, Dinh Norodom trở lại thành trụ sở làm việc của Cao ủy Pháp tại Đông Dương, một chức vụ gần tương đương với chức vụ Toàn quyền thời thuộc địa.
Dinh Độc Lập thời Việt Nam Cộng hòa
Sau năm 1954, người Pháp rút khỏi Việt Nam. Việt Nam bị phân chia thành 2 vùng lãnh thổ riêng biệt, miền Bắc do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát, còn miền Nam do chính quyền Quốc gia Việt Nam kiểm soát.
- Ngày 7 tháng 9 năm 1954, Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện Pháp, tướng 5 sao Paul Ely, và đại diện Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm.
- Năm 1955, sau một cuộc trưng cầu dân ý, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Ông quyết định đổi tên dinh này thành Dinh Độc Lập. Từ đó Dinh Độc Lập trở thành biểu tượng của chính quyền Nam Việt Nam cũng như nơi ở của tổng thống và là nơi chứng kiến nhiều biến cố chính trị. Thời kỳ này, Dinh Độc Lập còn được gọi là Dinh Tổng thống. Theo thuật phong thủy, Dinh được đặt ở vị trí đầu rồng, nên dinh cũng còn được gọi là Phủ đầu rồng.
Dinh đã xuất hiện trên giấy bạc 200 đồng của Việt Nam Cộng hòa.
- Ngày 27 tháng 2 năm 1962, phe đảo chính đã cử hai viên phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái 2 máy bay AD-6 ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của dinh. Do không thể khôi phục lại, ông Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.
Dinh Độc Lập có diện tích 120.000m2 (300m x 400m). Công trình kiến trúc giới hạn bởi bốn con phố chính. Đó là:
- Đường Công Lý về phía đông bắc (mặt chính của Dinh)
- Đường Huyền Trần Công Chúa ở phía tây nam (mặt sau của Dinh)
- Đường Hồng Thập Tự ở phía tây bắc (phía bên trái của Dinh)
- Đường Nguyễn Du về phía đông nam (phía bên phải của Dinh)
Nó cũng được bao quanh bởi Công viên Thống Nhất ở phía trước và Vườn Tao Đàn ở phía sau. Đặc biệt, khuôn viên của Dinh là nơi có rất nhiều cây cổ thụ với các loài khác nhau từ thời Pháp còn lại.
Kiến trúc
Khi thiết kế Dinh Ðộc Lập, vì muốn tìm một ý nghĩa văn hóa đặc biệt cho công trình, nên kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã lấy ý tưởng từ triết lý phương Đông cổ truyền và bản sắc văn hóa của dân tộc để thiết kế. Kiến trúc dinh là sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống phương Ðông.
Toàn thể bình diện của dinh làm thành hình chữ “Cát”, có nghĩa là tốt lành, may mắn; trung tâm của dinh là phòng Trình Quốc thư; lầu thượng mang ý nghĩa “Tứ phương vô sự/Bốn biển thanh bình” - lầu hình chữ “Khẩu”, với ý nghĩa đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ Khẩu có cột cờ ở chính giữa tạo thành hình chữ “Trung”, như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu Tứ phương, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ “Tam”. Theo quan niệm “dân chủ hữu tam” (Nhân, Minh, Võ), ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải có những con người hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ “Vương”, trên có kỳ đài làm nét chấm, tạo thành hình chữ “Chủ”, tượng trưng cho chủ quyền của đất nước. Mặt trước của dinh thự - toàn bộ bao lơn lầu hai và lầu ba kết hợp với mái hiên lối vào cùng hai cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ “Hưng”, ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh mãi.
Vẻ đẹp kiến trúc của dinh còn được thể hiện bởi hệ thống rèm hoa đá, mang hình dáng những đốt trúc thanh tao, bao xung quanh lầu hai. Rèm hoa đá được biến cách kiểu cửa của các cung điện Cố đô Huế, không chỉ làm tăng thêm vẻ đẹp của dinh, mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời từ bên ngoài. Bên trong dinh, tất cả các đường nét kiến trúc đều dùng đường ngang bằng, sổ thẳng; các hành lang, đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu “Chính đại quang minh” làm ý tưởng cho các đường nét kiến trúc.
Sân trước của dinh là một thảm cỏ hình oval, có đường kính 102m. Màu xanh của thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi bước qua cổng. Chạy theo suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ trồng sen và súng, gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của các vùng quê Việt Nam.
Dinh có chiều cao 26m, được xây dựng trên diện tích 4.500m², diện tích sử dụng là 20.000m², gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, 1 tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp xuống. Hơn 100 căn phòng của dinh, tùy theo mục đích sử dụng, được trang trí theo nhiều phong cách khác nhau, bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp Hội đồng Nội các, phòng làm việc của Tổng thống và của Phó Tổng thống, phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến... và các hồ sen bán nguyệt ở hai bên thềm đi vào chính điện, bao lơn, hành lang... Tất cả đều được thiết kế hết sức hài hòa, hợp lý.
Bên ngoài hàng rào phía trước và phía sau dinh là hai công viên cây xanh. Giữa những năm 60 của Thế kỷ 20, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng). Các hệ thống phụ trợ bên trong dinh rất hiện đại, với đầy đủ hệ thống điều hòa không khí, phòng, chống cháy, thông tin liên lạc, nhà kho... Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn và pháo. Các phòng của dinh được trang trí bằng nhiều tác phẩm tranh sơn mài, tranh sơn dầu, với chủ đề “non sông cẩm tú”.
Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời gian xây dựng, gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long (nay là Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh). Công trình đang xây dựng dở dang thì Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính ám sát ngày 2 tháng 11 năm 1963. Do vậy, ngày khánh thành dinh, 31 tháng 10 năm 1966, người chủ tọa buổi lễ là Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia. Từ ngày này, Dinh Độc Lập mới xây trở thành nơi ở và làm việc của tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sống ở dinh này từ tháng 10 năm 1967 đến ngày 21 tháng 4 năm 1975.
- Ngày 8 tháng 4 năm 1975, chiếc máy bay F-5E do Nguyễn Thành Trung lái, xuất phát từ Biên Hòa, đã ném bom Dinh, gây hư hại không đáng kể.
- Lúc 10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, xe tăng T54B mang số hiệu 843 của Quân đội Nhân dân Việt Nam dưới quyền chỉ huy của Trung úy Bùi Quang Thận đã húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập, tiếp đó xe tăng T59 mang số hiệu 390 do Vũ Đăng Toàn chỉ huy đã húc tung cổng chính tiến thẳng vào dinh.
Sau năm 1975
Sau biến cố 75, Việt Nam trở thành nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Sau hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc diễn ra tại dinh Độc Lập vào tháng 11 năm 1975. Dinh Độc Lập có tên là Hội trường Thống Nhất thuộc Cục Hành chính Quản trị II - Văn phòng Chính phủ. Đây là di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng được đông đảo du khách trong nước và nước ngoài đến tham quan.
Tổng hợp Nguồn Wikipedia, dinh doc lap.gov
Hình ảnh by historicvietnam - Tim Doling
Hay quá !