Tiên tri
Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số… Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình quốc công.
Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”.
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu viết là “khả dĩ dung thân”) nghĩa là “Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài”. Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê – Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: “Lê tồn Trịnh tại”.
Lịch sử khoa cử Việt Nam có hàng chục trạng nguyên, nhưng ít có ông trạng nào mà tên tuổi lại được nhắc tới với nhiều giai thoại kỳ bí như Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585). Là một nhà thơ lớn của dân tộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao tư tưởng nhân nghĩa, hòa bình. Chính ông là người đầu tiên nhắc tới hai chữ Việt Nam trong các tác phẩm của mình. Là một người thầy lớn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Học trò của ông, người theo nhà Mạc, người theo nhà Lê. Ngoài triều Mạc, cả họ Trịnh, họ Nguyễn, những người thuộc các phe đối lập, cũng đều tôn kính ông, thường xin ý kiến ông về nhiều vấn đề hệ trọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ cho tất cả. Họ đều thấy sự chỉ dẫn của ông là đúng, nên ông được xem như bậc đại hiền, một ông trạng tiên tri…
Những lời khuyên làm nên sự nghiệp
Năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh ruột là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm (anh rể) giết, bèn sai người đến xin ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc này đã 77 tuổi, đang sống ẩn dật ở Am Bạch Vân. Không trả lời trực tiếp, ông dẫn sứ giả ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và nói:
Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung thân” (Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được)
Hiểu được ý ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái xin với anh rể Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, từ đó lập ra nhà Nguyễn ở phương nam. Về sau sử nhà Nguyễn sửa thành “vạn đại dung thân”, hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi.
Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm cũng muốn bỏ Vua Lê để tự xưng vương. Khi cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông không trả lời mà dẫn sứ giả ra chùa, thắp hương mà nói: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm thóc giống cũ mà gieo”. Rồi lại bảo chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”. Hiểu ý, Trịnh Kiểm không dám phế bỏ nhà Lê mà phò Vua Lê để lập nghiệp Chúa.
Phùng Khắc Khoan đến gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm, với ý muốn nhờ thầy cho một lời khuyên: Có nên bỏ nhà Mạc để vào Thanh Hóa với triều đình Lê – Trịnh? Cả buổi chiều trò chuyện, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ hỏi tình hình, nói chuyện văn chương chứ không trả lời. Đêm ấy Phùng Khắc Khoan ngủ lại tại nhà thầy. Sang canh tư, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến phòng ngủ của học trò, đứng ngoài gõ cửa và nói vọng vào:
“Gà đã gáy rồi, trời đã sáng, sao không dậy, ngủ mãi ử”
Phùng Khắc Khoan nghe xong, suy nghĩ, và đoán rằng thầy gián tiếp bảo thời cơ đã đến, có thể vào giúp nhà Lê. Ông vội vàng thu xếp hành lý, đợi đến lúc mặt trời mọc thì vào giã từ thầy. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không nói gì, chỉ cuốn một chiếc chiếu ngắn ném theo. Phùng Khắc Khoan nhặt lấy chiếu, vừa đi vừa nghĩ:
“Phải chăng đây là ý dặn mình cần hành động gấp và dứt điểm như cuốn chiếủ”
Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm gần mất, nhà Mạc cho người đến hỏi ông về kế lâu dài. Ông đáp: “Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế” (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời). Sau quả đúng như vậy.
Những lời sấm cho nhiều đời sau
Dân gian lưu truyền nhiều bản Sấm ký được cho là của ông. Hiện nay ở kho sách Viện nghiên cứu Hán – Nôm còn giữ được bốn bản. Tuy nhiên các bản này đều không có tên người chép, chép từ bao giờ và chép ở đâu? Do vậy, chúng ta cần phải làm rõ vấn đề đâu là khả năng dự báo xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm do kiến thức và kinh nghiệm đã đem lại, đâu là những điều mà người đời đã gán ghép cho ông? Mặc dù là “tồn nghi” nhưng chúng tôi cũng xin trích ra để bạn đọc cùng khảo cứu.
Truyện kể lại rằng, trước khi qua đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách, nghe gia nhân báo có thư của cụ Trạng Trình thì lấy làm lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì cái xà rơi xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan sợ hãi vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:
“Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn (Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta)
Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy đời của Trạng hết sức tử tế. Đến đời Vua Minh Mệnh (1820 – 1840) trong dân gian lưu truyền một câu sấm: “Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi Vương” (đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua). Vua Minh Mệnh vốn tính đa nghi. Biết được mấy câu sấm ấy, nhà vua vừa có ý đề phòng, vừa căm giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền thờ Trạng Trình.
Nguyễn Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh triều đình cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi tháo cây thượng lương ra thì một cái hộp nhỏ đã để sẵn trong tấm gỗ, rơi xuống. Quân lính nhặt đưa trình chủ tướng, Nguyễn Công Trứ mở xem, trong đó có một mảnh giấy đề chữ:
“Minh Mệnh thập tứ Thằng Trứ phá đền Phá đền thì lại làm đền Nào ai cướp nước tranh quyền gì ai”.
Nguyễn Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá đền, khẩn cấp tâu về triều đình, xin làm lại đền thờ Trạng Trình. Ở một tập sấm mở đầu có các câu:
“Nước Nam thường có thánh tài Sơn hà vững đạt mấy ai rõ ràng Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho Học cách vật mới dò tới chốn…”
Có người cho rằng những lời thơ ấy đã khẳng định đất nước có nhiều người tài giỏi, cùng với nhân dân giữ vững đất nước qua biết bao nguy biến. Đất nước cũng có nhiều tài nguyên phong phú cần được khai thác. Đảo Sơn phải chăng là Vũng Tàu – Côn Đảo? Nơi có tiềm năng về dầu khí và có vị trí kinh tế chiến lược? Những lời sấm ấy cũng khẳng định phải có khoa học – kỹ thuật (học cách vật) mới có thể khai thác tốt và sử dụng tốt những tài nguyên đó, những âu vàng trời cho.
Tập sấm còn đề cập tới một bậc Thánh giúp đời:
“Một đời có một tôi ngoan, Giúp chung nhà nước dân an thái bình Ấy điềm sinh Thánh rành rành chẳng nghi”
[…] Trong tập sấm cũng ghi một lời rất đặc biệt:
“Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ Hưng tộ diên trường ức vạn xuân” (Đất nước Hồng Lam này sau ta 500 năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân)
Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585, thọ 94 tuổi. Ba trăm năm sau, trong bộ sách lớn “Lịch triều hiến chương loại chí”, nhà văn hóa Phan Huy Chú đã coi Nguyễn Bỉnh Khiêm là “Một bậc kỳ tài, hiển danh muôn thuở”.
Trường Sơn
Ở Việt Nam, nếu nói đến các bậc tiên tri thì trước hết phải kể đếnTrạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Những câu chuyện về tài tiên tri của Trạng chủ yếu là còn lại dưới hình thức các giai thoại đó gồm ba loại chính: khi trạng còn sống, sau khi trạng mất, những suy diễn của người sau.
Nhiều người trong chúng ta từ khi còn nhỏ đã được nghe những lời đồn đại về Sấm Trạng Trình với một vẻ đầy huyền bí cao siêu. Vậy Sấm Trạng Trình là gì? Từ những năm 30 của thế kỷ này, câu chuyện sấm bắt đầu rộ lên sau cuộc khởi nghĩa bất thành do nhà cách mạng Nguyễn Thái Học lãnh đạo với những câu:
Tan tác KIẾN kiều AN đất nước Xác xơ CỔ thụ sạch AM mây LÂM giang nổi nóng sóng mù THAO cát HƯNG địa tràn dâng HÓA nước đầy...
mà người ta cho là có gắn với những nơi xảy ra cuộc khởi nghĩa.
Sau cuộc Đại chiến thế giới thứ hai thì nói đến đoạn:
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh Can qua xứ xứ khổ đao binh Mã đề dương cước anh hùng tận. Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
Năm 1945, hai triệu đồng bào ta chết đói rồi Cách mạng Tháng Tám thành công lại thấy lan truyền hai câu:
Mười phần chết bẩy còn ba Chết hai còn một mới ra thái bình.
Vậy trong những câu gọi là Sấm Trạng Trình thì đâu là sự thực? Có đúng là của Trạng viết ra không?...
Về nhà thơ có nhiều đóng góp trong việc xây dựng nền văn thơ chữ Nôm của ta hồi thế kỷ thứ 16, nhiều tài liệu, sách vở đã được biên soạn. Tuy nhiên không chỉ vì đã đỗ Trạng Nguyên lại được phong tước Trình Tuyền hầu, Lại Bộ Thượng thư... mà cụ được nhân dân ta yêu mến gọi là Trạng Trình. Cái tên gọi với hàm ý sâu xa đầy kính phục đó còn là do những lời đoán định tiên tri, đặc sắc của cụ trong cuộc sống thường nhật cũng như thời cuộc lúc bấy giờ.
sách Giai thoại và sấm ký Trạng Trình Tác giả : Nguyễn Nghiệp