Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông rợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta.
top of page
bottom of page
Bà Huyện Thanh Quan và Bà Hồ Xuân Hương là hai nữ sĩ kiệt xuất trong nữ giới của nền Văn Học Việt Nam vào cuốt thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19. Điều đó khó ai phản bác được. Hai nữ sĩ, mỗi người mỗi vẽ, mỗi người mỗi cung cách, nhưng cả hai Bà đều độc đáo. Rất nhiều nhà phê bình văn học đã cho Bà Hồ Xuân Hương có một văn phong "bình dân", dùng rặt chữ Nôm, còn Bà Huyện Thanh Quan thì có văn phong "bác học", xen Hán tự nhiều trong tác phẩm của mình.Thật thế, ta thấy rất nhiều thành ngữ chữ Hán trong tác phẩm của Bà Huyện. Theo Wikipedia Tiếng Việt , ngày nay ta chỉ còn 6 bài thơ "thất ngôn bát cú" của Bà, ngoại trừ bài "Cảnh Thu", mà người ta cho rằng có thể là của Bà Hồ Xuân Hương. Trong 6 bài đó có rất nhiều thành ngữ chữ Hán, trừ bài "Qua Đèo Ngang"."Thành ngữ chữ Hán" tôi muốn nói ở đây, có nghĩa là ta có thành ngữ chữ Việt (Nam, Nôm) tương đương,như Triêu Mộ 朝 暮 , ta có Sớm Tối; Tuế Nguyệt 歲 月 , ta có Năm Tháng; Đoạn Trường 斷 腸 ; ta có Đứt Ruột…Mặt khác, tôi tìm thấy trong Contes et Légendes du Pays d’Annam của Lê Văn Phát, viết năm 1913, in lần thứ 2, tại Imprimerie de l’Union Nguyễn Văn Của, Sàigòn 1925, có bài "Le Râle d’eau " . Trong " Le Râle d'eau " lại có bài "Đèo Ngang", vô danh, rặt chữ Nôm, văn phong rất mộc mạc, còn nội dung thì giống hệt nội dung bài "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan.Bài " Le Râle d’eau " kể chuyện ngày xưa. Chuyện vua La Hoa (?) nước Chiêm Thành đem quân đánh Giao Chỉ. Môt cận thần tên Quốc đã hết lời can gián và xin hoãn lại cuộc viễn chinh, nhưng nhà vua không nghe. Biết rằng trận chiến này thế nào cũng đem lại thất bại, Quốc xin theo, hầu quyết tâm bảo vệ an toàn cho chúa.Cuộc chiến xảy ra ở Đèo Ngang. La Hoa, quá hiếu chiến, quá chủ quan, tiến thẳng đến trận tiền, nên bị trúng tên mà chết. Quá đau đớn, Quốc liều xông ra chém giết giữa muôn tên ngàn giáo để báo thù. Nhưng đơn thương độc mã, nên Quốc đã chết dưới làn sóng của địch quân. Quá uất ức, hồn của Quốc không siêu thoát được, cứ phảng phất quanh Đèo Ngang để tìm xác chủ, nhưng vô hiệu quả. Sau đó Quốc tái sinh dưới dạng con chim Cuốc để đêm đêm rít lên những tiếng kêu bi ai của một vị trung thần khóc quốc vương tử trận: "Quốc Quốc, La Hoa ", Quốc ở đây, còn La Hoa ở đâu ?Một văn nhân vô danh, đi qua Đèo Ngang, nhớ lại chuyện xưa, đã làm bài thơ " Đèo Ngang ".Ông Lê Văn Phát chỉ để lại hai tác phẩn La vie intime d’un Annamite et ses croyances vulgaires, (Bulletins de la Société des Etudes Indochinoises, Imprimerie F.H Schneider Sàigòn 1907 ), và Contes et Légendes du Pays d’Annam, (Imprimerie de l’Union Nguyễn Văn Của, Sàigòn 1913), bằng chữ Pháp. Như thế, có thể ông Lê Văn Phát không biết nhiều về các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan. Những bài của ông Lê Văn Phát viết, toàn là chuyện cổ tích, huyền thoại dân gian cả. Bài «Đèo Ngang» trong Contes et Légendes du Pays d’Annam có thể là một giai thoại dân gian lâu đời, có trước thời Bà Huyện Thanh Quan chăng. Sau đây là bài "Đèo Ngang" theo ông Lê Văn Phát :
Đèo Ngang
Qua ải Đèo Ngang bóng ác tà, Cỏ cây chen đá, lá chen ba. Non cao rải rác tiều vài lão, Đất rộng lai rai xóm mấy nhà. Nhớ chúa đau lòng con Quốc-Quốc, Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa-Hoa. Dừng chơn ngóng cổ miền non nước, Một tấm lòng riêng ta với ta.
Vô danh.
[ ... Quốc-Quốc, tên của trung thần Quốc] [ ... Hoa-Hoa, tên của vua La Hoa]
Vậy phải chăng Bà Huyện đã lấy bài đó, đã có từ lâu, và trau chuốt lại thành một bài thơ bất hủ như ta đã biết :
Qua đèo Ngang
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, chợ (rợ) mấy nhà. Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Bà Huyện Thanh Quan
(Nguyễn Vĩnh Tráng )
Dương Quảng Hàm
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. Dừng chân đứng lại: trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Dương Quảng Hàm ,Văn học Việt Nam Hanoi 1939 . BQGGD,TrungTâm Học Liệu tái bản, trang 47 )
Ghi chú riêng của người viết về bản văn F2, Dương Quảng Hàm
Giáo sư Dương Quảng Hàm đã đọc rất chính xác 56 chữ nôm trên văn bản F1. Bản văn F2 của Dương Quảng Hàm tại câu luận (5,6 ) không có dấu phẩy.Thời ông, các vị khác như Ôn Như Nguyễn văn Ngọc hay giáo sư Nghiêm Toản không sao sánh kịp về độ nghiêm túc trong việc viết sách Giáo khoa. Cách đọc chữ nôm trong văn bản Qua Đèo Ngang sai trái trước đây ,nay đã được ông ĐINH VĂN TUẤN, hóa giải và ông đã giảng rất tường minh.
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n15156/ Ve-cai-gia-gia-trong-bai-tho-Qua-Deo-Ngang-cua-Ba-Huyen-Thanh-Quan.html, .
Bài Qua đèo ngang, có ông học giả nào đó nói là sao chép, thêm thắt sửa đổi của bản gốc vô danh nào đó. Và có trang mạng nói:
- Lác đác bên sông chợ mấy nhà ...
Thiệt nhức đầu!