THỜI NIÊN THIẾU
Tại một làng quê có tên phú lạc (thuộc xã Bình An, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định ngày nay), có một gia đình họ Nguyễn có ba người con trai tên: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1752 - tuy là em út, nhưng vóc dáng cao lớn, luôn sẵn lòng giúp gia đình, các anh làm được nhiều việc. Nguyễn Huệ đã sớm tỏ ra là một con người thông minh, mưu trí, nhân từ...
Tuổi thơ, Huệ giúp gia đình thả bò đi ăn ở mạn Nam sông Côn; thường hay bày trò "đánh giặc giả" với đám chăn bò trong các làng lân cận. Phe của Huệ luôn giành phần thắng, nên lũ trẻ rất thích... theo phe Huệ!
Theo truyền thuyết dân làng kể lại, một lần nọ, có một người lạ mặt tìm đến đám chăn bò, có ý thuê một đứa giúp ông một việc: Lặn xuống đáy một hồ nước cạnh chân núi, bỏ một chiếc hộp vào miệng một khe đá là miệng của một con rồng. Ông sẽ thưởng cho mười lạng bạc! Nguyễn Huệ sớm biết mưu đồ, thâm ý của ông, nên tuy không có đứa nào dám nhận lời - Huệ cương quyết lãnh nhận. Nguyễn Huệ lặng sâu xuống đáy vực, theo lời dặn dò, Huệ tìm thấy miệng hang của một con rồng. Ông không bỏ chiếc hộp vào, mà tìm một khe đá khác nhét hộp vào. Nguyễn Huệ trồi lên mặt nước, lên bờ - người đàn ông vui mừng trao cho Nguyễn Huệ mười lạng bạc! Người đàn ông lạ một ấy là một thầy địa lý nổi tiếng, ông muốn tìm long huyệt, để chôn hài cốt của cha mình, sau này ông và con cháu sẽ có mạng Đế Vương, quan to, hay giàu có. Ông đã không ngờ được một cậu bé chăn bò đã hiểu thâm ý, đánh lừa ông dễ như chơi.
Người anh cả của Nguyễn Huệ ngoài việc đồng áng, trồng trọt, còn có nghề đi buôn. Ông chèo thuyền lên mạn ngược, tìm mua trầu lá của các làng người dân tộc Bana, Rađê; rồi xuống thuyền về An Thái (xã Nhơn Phúc) để bán. Nguyễn Huệ cũng được anh nhờ theo hộ tống ghe thuyền, vì dọc đường có thể bị cướp.
Ba anh em theo học chữ với thầy Nguyễn Văn Hiến - thường gọi là thầy giáo Hiến - ở An Thái. Thầy giáo Hiến là người rất giỏi văn chương, lại rất đạo đức; được dân chúng ca ngợi. Chính ông đã đặt vào tâm hồn Nguyễn Huệ lòng yêu quý văn thơ; đặt nền móng cho những ước mơ xây dựng nền văn học chữ Nôm sau này của Nguyễn Huệ.
Người thầy dạy võ đầu tiên cho ba anh em Nguyễn Nhạc, là ông Đinh Văn Nhưng - tục gọi ông Chãng. Cả ba anh em phải khăn gói, mang gạo thóc xuống tận Phương Danh (xã Đập Đá - huyện An Nhơn) để tầm sư học võ. Ông Chãng có tướng người to con, thô kệch, rất giỏi võ nghệ, tính tình cương trực, nóng nảy. Ông cũng là một trong số rất ít gia đình có công khai hoang, lập ấp, xây dựng làng ấp; mở rộng bờ cõi cho An Nhơn...
Trong ba người học trò này, ông thường ngợi khen Nguyễn Huệ là người rất mưu trí, không những thông thuộc các thế hệ võ ông đã dạy, mà còn có nhiều sáng kiến, biến hoá riêng. Ông cũng thường để Nguyễn Huệ ra thử đấu với ông, để thử tài cao thấp. Lần nào Nguyễn Huệ cũng được ông nể phục.
CHIÊU MỘ BINH SĨ VÀ KHỞI NGHĨA
Theo sách Liệt Truyện ghi lại, Nguyễn Huệ có sức khoẻ tuyệt trần, lại có mưu trí quyền biến, mưu lược như thần. Nguyễn Huệ còn có "giọng nói vang như chuông, cái nhìn sắc như chớp".
Ba anh em Nguyễn Huệ ngày đêm chiêu mộ binh sĩ, quy tụ từng đoàn, cho luyện tập võ nghệ, thuần phục. Nguyễn Huệ còn đích thân đi cầu người hiền tài, thông hiểu binh pháp, về giúp sức cùng nghĩa binh. Vì vậy, có nhiều tướng giỏi, trung thành, trở về cùng ba anh em ông mưu tính việc khởi nghĩa... Trong đoàn quân tinh nhuệ của ông, có cả nhóm người dân tộc Bana, Radhê... cũng quyết lòng theo ông, chống lại loạn thần Trương Phúc Loan đang cùng bọn quan lại thối nát, nhiễu hại dân lành, vơ vét của cải...
Nước Nam lúc bấy giờ đã bị phân chia làm hai miền, lấy Sông Gianh làm giới tuyến: Họ Nguyễn hùng cứ phương Nam - gọi là Đàng trong (hay Nam Hà). Họ Trịnh tự xưng chúa phương Bắc - Đang ngoài (Bắc Hà). Trên tuy còn có Vua Lê, nhưng quyền hành thuộc cả vào tay hai chúa Trịnh - Nguyễn. Trong nước đã có Vua, lại có chúa, nên Vua chẳng phải là Vua, tôi không phải là tôi: Nước Nam đang ở vào thời nhiễu loạn, phân hoá trầm trọng.
Về sau, Đàng Trong có đại thần Trương Phúc Loan chuyên quyền, làm bậy Đàng Ngoài, có kiêu binh chúa Trịnh làm loạn, giết hại các quan đại thần trung tín với nhà lê. Vua phải hạ mình, nhún nhường chịu phục; còn đình thần phải khoanh tay im lặng: Nước Nam đang ở vào thời đại loạn.
Trước tình cảnh ấy, ba anh em Nguyễn Huệ quyết định khởi binh, phát xuất từ ấp Phú Lạc (Tây Sơn) vào năm 1771 - tiến đánh các huyện An Khê, An Nhơn, Tuy Viễn... Đoàn quân tấn công ở đâu, đều được dân chúng ủng hộ, giúp đỡ, xin gia nhập vào nghĩa binh ngày một đông. Đến năm 1773 - đội quân hùng mạnh của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã chiếm được thành Qui Nhơn - làm căn cứ địa vững chắc cho cuộc khởi nghĩa...
NGUYỄN HUỆ ĐÁNH NAM - DẸP BẮC
Sau một thời gian cũng cố thế lực, chuẩn bị quân lương - đội quân Tây Sơn đã tạo được nhiều thanh thế lừng lẫy qua các trận đánh đều thắng lợi, quần chúng tin theo rất đông. Nhận thấy ở Đàng Trong loạn thần Trương Phúc Loan chuyên quyền hà hiếp, cướp bóc, giết hại dân lành, chế độ nhà Nguyễn thối nát, dân tình rất cực khổ. Nguyễn Huệ đã cùng các anh là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ tiến quân vào Nam, Nguyễn Huệ đã dốc sức giúp anh chiến thắng vẻ vang, nhưng sau đó đều rút quân về Qui Nhơn, chỉ lưu lại một võ tướng và vài đạo binh để trấn giữ thành... Vì vậy, tàn quân của Chúa Nguyễn - các con cháu lưu lạc, có cơ hội tập hợp binh mã, nổi lên chống cứ lại quân Tây Sơn hòng chiếm lấy thành Gia Định, dựng lại nghiệp chúa như xưa.
Lần thứ tư, Nguyễn Huệ thống lãnh đại binh, thẳng đường vào Nam tiến đánh tàn quân nổi loạn của Chúa Nguyễn. Lần này, Chúa Nguyễn đã cầu xinh được viện binh của Xiêm La, gần hai vạn quân - gọi là đội quân "hùm beo" - rất hung dữ để chống lạ Tây Sơn. Với tài điều binh thần tốc, mưu trí hơn người, chỉ trong vong một ngày giáp chiến ác liệt, đội quân "hùm beo" của Xiêm La chỉ còn lại vài trăm tên, lủi thủi chạy về nước...
Nguyễn Nhạc phong cho em là Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở lại cai quản đất Gia Định kéo dài ra đến Bình Thuận...
Mặt trận Đàng Trong đã tạm yên, Nguyễn Huệ tức tốc đem binh ra Bắc Hà "hỏi tội lộng quyền, bức hiếp đình thần, truất quyền của Vua Lê, lại xâm hại dân chúng" của chúa Trịnh. Với lá cờ thêu bốn chữ vàng "Phù Lê, diệt Trịnh"; Nguyễn Huệ đã được đông đảo quan quân, dân chúng nhiệt tình ủng hộ.
Chỉ trong một tháng, quân Tây Sơn đã đánh chiếm đến thành Phú Xuân - các đội quân thuỷ bộ thẳng đường tiến ra Bắc Hà. Quân của Chúa Trịnh chống cự lại quyết liệt. Nguyễn Huệ luôn đi đầu hàng quân, tiến đánh như vũ bảo; quân sĩ một lòng trung kiên dưới cờ "Phù Lê, diệt Trịnh" của Nguyễn Huệ; tấn công quân Trịnh, chiếm giữ nhiều cứ điểm quan trọng.
Quân Tây Sơn lần lượt tiến chiếm Thuận Hoá, đến tận sông Gianh, rồi chiếm Nghệ An, Thanh Hoá... khiến cho họ Trịnh hốt hoảng, cố ngăn giữ đoạn sông chảy qua Sơn Nam. Nguyễn Huệ đã dùng mưu, lợi dụng đêm tối, ông cho năm chiếc thuyền chở đầy rơm, người nộm bằng rơm, tiến về phía địch. Quân Trịnh bắn ra tới tấp. Đạn hết. Nguyễn Huệ mới bắt đầu mở cuộc tấn công thực sự. Ông toàn thắng. "Đường đến kinh đô đã mở..."
Chúa Trịnh chạy lên Tây Sơn, giữa đường ông ta bị dân chúng vây bắt, và lúc sắp bị nộp cho quân Tây Sơn thì ông tự tử chết. Chế độ Chúa Trịnh đã bị tiêu diệt, sau 240 năm trời tồn tại (1545 - 1786). Nguyễn Huệ tiến vào thành Thăng Long giữa tiếng reo hò, chúc mừng vang dậy. Tấm chiến bào ông đang mặc đã xám đen thuốc súng, đất bụi của cuộc chiến chinh.
Làm chủ được kinh thành, Nguyễn Huệ thực hiện một kỷ luật nghiêm minh trong quân và lập lại trật tự bằng một sự công bằng nhanh gọn. Đúng vào hôm sau kéo quân vào thành Thăng Long, Nguyễn Huệ đến yết kiến Vua Lê Hiển Tông - vị vua lên ngôi từ năm 1740 dưới lòng họ Trịnh, bây giờ đã gần 70 tuổi. Nhà Vua tiếp Nguyễn Huệ ở cung Vạn Thọ. Ông ta đã cho Nguyễn Huệ đến ngồi bên cạnh mình. Nguyễn Huệ biểu hiện lòng trung thực với nhà Vua: Ông đến đây nhằm bảo vệ triều đại nhà Lê, muốn nhìn thấy nhà Lê hưng thịnh mà thôi...
Ngày 7 tháng 7 âm lịch, ngày lành - giữa rừng cờ tung bay trước gió, và những tiếng trống cồng vang động, Nguyễn Huệ cùng một số tướng lĩnh đến điện Kinh Thiên, có đủ bá quan văn võ nhà Lê tham dự... Lạy xong năm lạy, Nguyễn Huệ dâng lên Vua Lê những sổ binh và sổ hộ, với ý nghĩa triều Lê đã nắm lại thực quyền. Hiển Tông phong cho ông chức tướng, tước Uy Quốc Công và gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ kéo quân về đóng ở Phú Xuân, chỉ giao cho Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại Bắc Hà, trợ giúp Vua Lê xây dựng lại triều chính, đất nước. Vua Lê Hiển Tông băng hà, cháu là Lê Chiêu Thống lên nối ngôi. Sự yếu đuối, bất tài của Lê Chiêu Thống không vực dậy được một triều đại đã tan rã, kiệt quệ... Ngay tháng sau đó, họ Trịnh đã quay trở lại dùng vũ lực thiết lập lại những đặc quyền, đặc lợi của mình. Sự lấn át quyền hành của họ Trịnh nặng nề đến mức nhà Vua phải mất công sai người đến cầu cứu với Nguyễn Hữu Chỉnh.
Gặp dịp thuận lợi cho ý đồ mưu phản, mong chiếm trọn Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh vội vã kéo một vạn quân về Thăng Long đánh bại quân của Trịnh Bồng, rồi nắm lấy mọi quyền hành, tự xem mình là chủ đất Bắc.
Theo lời khuyên đầy thâm ý của Chỉnh, Vua Chiêu Thống đã nhẹ dạ, khiếp nhược cử phái đoàn vào Nam xin lại đất Nghệ An; mà sẽ đem lại mối lợi lớn cho Chỉnh sau này. Nguyễn Huệ được tin Nguyễn Hữu Chỉnh tạo phản, đang nổ lực xây dựng thanh thế ở Bắc Hà, hòng tiến đánh Tây Sơn, chiếm ngôi nhà Lê; liền sai Võ Văn Nhậm ra Bắc trị tội Chỉnh...
Viên tướng Tây Sơn đã đánh tan quân Bắc Hà, tiến vào kinh thành và nhà Vua đã bỏ chạy... Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt, và bị hành hình; Lê Chiêu Thống phải phiêu bạt, lẫn trốn nhiều nơi. Về sau, Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu phải chạy sang Tàu, cầu cứu nhà Thanh... Trong lúc đó, Võ Văn Nhậm say men chiến thắng, lại được triều thần nhà Lê sũng ái, có nhiều quyền lực trong tay, nên bắt đầu chuyên quyền và lại muốn tạo phản. Lần này, chính Nguyễn Huệ cầm quân ra Bắc Hà dẹp loạn. Quân Võ Văn Nhậm thua trận.Võ Văn Nhậm bị bắt và hành hình vì tội phản nghịch. Nguyễn Huệ triệu tập các viên chức nhà Lê, cho phục hồi chức vị; ông không nỡ diệt nhà Lê, nên sau khi lập lại trật tự, ông giao việc cai quản Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, rồi trở về Phú Xuân... Từ đất Quảng Ngãi trở ra đến Sông Gianh, thuộc quyền cai quản của Nguyễn Huệ - Nguyễn Nhạc đã phong cho ông là Bắc Bình Vương. Ông hùng cứ ở Phú Xuân, ngày đêm lo việc quân binh, chăm lo đời sống của dân chúng về mọi mặt...
VUA QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN THANH
Vua Lê Chiêu Thống đã mấy lần toan khôi phục lại nhà Lê nhưng không được, phải nương náu ở Lạng Giang. Bà Hoàng Thái Hậu thì đem Hoàng tử sang Long Châu kêu van với quan Tàu xin binh cứu viện. Quan Tổng Đốc Lưỡng Quãng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu lên Vua Càn Long nhà Thanh rằng: "... Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, tình cũng nên thương. Và nước Nam vốn là đất cũ của Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê và lấy được đất An Nam, thật là lợi cả đôi đường”. Vua Càn Long nghe lời tấu ấy, sai Tôn Sĩ Nghị khởi binh bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quí Châu, VânNam đem sang đánh Tây Sơn...
Tướng Tây Sơn giữ Thăng Long là Ngô Văn Sở được tin quân Tàu đã sang, sợ thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân thuỷ bộ về đóng giữ từ núi Tam Điệp ra đến bờ biển, rồi sai người về Phú Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ. Tôn Sĩ Nghị Kéo đại binh vừa đến Kinh Bắc (Bắc Ninh), vua Lê Chiêu Thống vội ra chào mừng rồi theo quân Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa bãi về mé nam sông Nhị Hà, cho bắc cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và chia quân ra đóng giữ các mặt. Ngày hôm sau, Sĩ Nghị làm lễ tuyên đọc tờ sắc của Vua nhà Thanh phong cho Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương. Vua Chiêu Thống tuy được thụ phong nhưng các tờ văn thư đều phải để “niên hiệu Càn Long”. Mỗi khi buổi chầu xong lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật, quân quốc. Sĩ Nghị thì ngạo nghễ, tự đắc, xử với vua rất khinh bạc. Người bấy giờ bàn với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế Vương đến giờ, không thấy Vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm Vua, mà phải theo niên hiệu Vua Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc Sĩ Nghị, thế là có khác gì đã là nội thuộc, nô lệ rồi không?". Vua và triều thần bấy giờ việc gì cũng trông vào Tôn Sĩ Nghị, ngày đêm lo việc báo ân, báo oán, giết hại những người trước đã theo Tây Sơn. Sĩ Nghị thì ngày càng kêu ngạo thêm, coi việc binh làm thường, lại thả binh ra cướp phá dân làng, làm lắm sự nhũng nhiễu...
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ được tin quân nhà Thanh đã sang đóng ở Thăng Long, lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh; các tướng đều xin Nguyễn Huệ hãy chính ngôi tôn, để yên lòng người rồi sẽ khởi binh. Nguyễn Huệ bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, phía nam thành Phú Xuân, ngày 25 tháng 1 năm Mậu Thân (1778), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, hiệu là Quang Trung. Sắc phong cho Công chúa Ngọc Hân làm Hoàng Hậu; con trai là Nguyễn Quang Toản làm Thái tử.
Hoàng đế Quang Trung tự mình thống lĩnh thuỷ bộ đại binh lên đường tiến ra Bắc Hà. Đến Nghệ An, cho quân nghỉ dưỡng 10 ngày, để chọn lấy thêm binh. Cả thảy được 10 vạn quân, và hơn 100 con voi.
Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ thủ bảo mọi người phải cố gắn đánh giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Để cuộc hành quân được nhanh chóng, đúng như dự tính. Vua sai bảo đem theo võng: Hai người khiên một, sau đó lại đổi chỗ nghỉ cho nhau để bảo vệ sức khoẻ. Ngày 20 tháng chạp, Mậu Thân - 1788, đoàn quân đã đến núi Tam Điệp: Các tướng Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui về, giữ chỗ hiểm yếu chờ lệnh nhà Vua.
Vua Quang Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này làm vua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này, đích thân coi việc quân đánh giữ, đã định sách lược mưu kế rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế! Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì Nhậm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mười năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa!"
Hoàng Đế Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước, để đến hôm trừ tịch (tối 30 tháng chạp) thì hành quân đi. Nhà Vua quyết định ngày Mồng Bảy Tết sẽ vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Vua Quang Trung tuyên bố trước tướng sĩ: "Trước hết, ta hãy ăn tết cho thoả thuê, rồi ta sẽ ra Thăng Long vào ngày Mồng Bảy - tiếp tục vui xuân. Các khanh hãy nhớ lấy lời ta!". Nói rồi vua Quang Trung truyền lệnh: "Đại tư mã Sở, Nội hầu Lân đem tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem quân đi đốc chiến. Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thuỷ quân vượt qua bể vào sông Lục Đầu. Rồi Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé sông; Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phương Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về. Đại đô đốc Bảo, Đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tướng mã đi đường núi ra đánh phía tây. Mưu thì xuyên qua huyện Chương Đức (nay là Chương mỹ) tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì; đánh quân Điều Châu; Bảo thì thống xuất quân thượng mã theo đường huyện Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả...".
Năm cánh quân được lệnh truyền của Hoàng Đế, đều thu xếp, chuẩn bị thật chu đáo, chờ đến hôm 30 tháng chạp đều xuất phát lên đường... Sáng sớm ngày 30, các đoàn quân đều khua trống chiêng vang động, náo nức tiến ra Bắc. Năm đoàn quân cờ xí rợp trời, mỗi đoàn một hướng, rầm rộ hành quân theo lệnh đã truyền như một ngày Hội lớn... Khi đoàn quân tiến sang sông Giảng Thuỷ (giáp giới tỉnh Ninh Bình và Hà Nam), cánh quân của nhà Lê tan vỡ, bỏ chạy cả. Vua Quang Trung đích thân đốc các quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên, bắt sống được hết toán quân Tàu đóng ở đấy, không một người nào chạy thoát được. Vì thế nên không có tin báo về, đám quân Tàu đóng ở làng Hà Nội và làng Ngọc Hồi không biết được tin tức gì cả.
Nửa đêm mồng 3 Tết năm Kỷ Dậu (1789) quân Vua Quang Trung đến làng Hà Nội vây kín đồn giặc, rồi bắt loa lên gọi, các cánh quân dạ rầm cả lên có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi, hoang mang, đều xin hàng. Bởi thế lấy được hết cả quân lương và khí giới. Sáng tinh sương ngày mồng Năm, quân Tây Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ thấm nước quấn ở ngoài, rồi truyền sai quân kiêu dũng, cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt theo một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới đi theo sau. Vua Quang Trung cỡi voi đi đầu đốc chiến, quân ta vào đến gần nửa đồng, bỏ ván xuống đất rút dao ra, xông vào chém. Quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Tây Sơn thừa thế đánh tràn đi như vũ bão, lấy được hết các đồn bót, giết quân nhà Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng, máu chảy như tháo nước.
Các đạo quân khác cũng báo tin về được toàn thắng: Quan nhà Thanh là Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Sĩ Long, Tả dực Thượng Duy Thăng đều bị tử trận cả; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống ở Đống Đa (ở cạnh Thái Hà ấp, gần Hà Nội) bị quân Tây Sơn vây đánh, cũng thắc cổ tự vẫn... Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hốt hoảng không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáp, đem mấy tên kỵ mã chạy qua sông sang Bắc, trốn về nước. Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau sang cầu, một lát sau cầu gãy đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy những thây người chết...
Vua Chiêu Thống cũng theo Tôn Sĩ Nghị sang sông cùng với bà Hoàng Thái Hậu và mấy người cận thần chạy sang Tàu. Đạo quân Vân Nam và Quý Chân đang ở miền Sơn Tây (trước đất Phú Thọ, Vĩnh Yên thuộc địa hạt tỉnh Sơn Tây) nghe tin quân Sĩ Nghị đã thua to, cũng rút quân trốn chạy về nước...
Ngày hôm ấy, Vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, xông pha trận mạc, áo ngự bào bị thuốc súng bắng vào đen như mực. Đến trưa, thì vào thành Thăng Long, sai tướng đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa ải Nam Quan mới dừng lại. Hoàng Đế Quang Trung vào thành Thăng Long hạ lệnh chiêu an, vãn hồi trật tự; những người lính Tàu thú tội đều được cấp cho quần áo và lương ăn. Vua Quang Trung còn bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong các giấy tờ thu được có cả tờ mật dụ của Vua Càn Long gửi cho Sĩ Nghị. Vua Quang Trung xem trong tờ mật dụ bảo với Ngô Thì Nhiệm: "Ta xem tờ chiếu của Vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận dữ dội, tất là lấy làm xấu hổ, chắc không chịu để yên. Hai nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà ngươi chủ trương thực hiện cho mới được".
Công cuộc đánh dẹp, bình định ở Bắc Hà xong; Vua Quang Trung đem quân về Nam; lưu lại Ngô Văn Sở và Phan Văn Long trông coi các việc quốc quân. Còn những việc từ lệnh giao thiệp với nước Tàu thì uỷ thác cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích cho được tự do sử lý, thực hiện. Nếu không có việc hệ trọng, thì cũng không cần tâu báo lại làm gì.
Đời sống, sinh hoạt của người dân ở Bắc Hà đã trở lại an bình, hưng phấn. Nhất là dân chúng ở kinh thành Thăng Long thì rất đỗi vui mừng, vì từ nay sẽ không còn bị lệ thuộc, áp bức, lầm than. Nước nhà đã thống nhất, đã được độc lập; sống thời thái bình, hạnh phúc...
HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG TRONG NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI
Hoàng đế Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là một ông Vua anh dũng, lấy võ lược xây dựng cơ đồ. Quang Trung dùng trái tim độ lượng xứ thế, am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài.
Lúc trấn nhậm đất Phú Xuân, tuy việc binh, việc nước bề bộn, nhưng Quang Trung luôn có mặt đều ở các hội tao đàn, xiển dương thơ văn lễ nhạc. Khi ra lấy Bắc Hà, những bậc hiền tài như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được Quang Trung trọng dụng. Với Nguyễn Thiệp (còn gọi là Lạc Niên Tiên Sinh, hay La Sơn Phu Tử), tuy không ra trực tiếp giúp nhà Tây Sơn, nhưng Quang Trung vẫn kính trọng và xem như bậc thầy, thường lui tới vấn an, lễ vật và xin được chỉ bày việc nước...
Vua Quang Trung đã được Vua Càn Long nhà Thanh sắc phong là An Nam Quốc Vương; được Vua Càn Long mời sang yết kiến, lại tặng nhiều lễ vật, được hoạ sĩ Tàu vẽ chân dung; tiếp đón trọng thể với nhiều nghi lễ đặc biệt. Thật ra, để đề phòng thâm ý của nhà Thanh, Vua đã cử cháu mình là Phạm Công Trị, giả làm "Vua Quang Trung" trong chiến đi lịch sử này. Tuy là đã thụ phong nhà Thanh, Vua Quang Trung vẫn tự sử theo cách Hoàng Đế, lập bà Ngọc Hân con Vua Hiển Tông làm Bắc Cung Hoàng hậu, lập con là Quang Toản làm Thái tử... cho xây Phượng Hoàng Trung đô tại Nghệ An.
Hoàng Đế Quang Trung thực hiện ngay công việc cải cách, xây dựng đất nước, từ việc chính trị, quan chế, đinh điền, giáo dục, văn hoá, tôn giáo, cho đến công cuộc chuẩn bị để đánh Tàu. Mọi việc đã tiến hành tốt đẹp, theo như hoạch định đã soạn sẵn từ trước. Đến năm Nhâm Tý (1792) Vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng. Việc ấy tuy không phải là thực ý của Vua, nhưng muốn mượn chuyện để thử ý Vua nhà Thanh?
Dự định chưa thành, thì Vua Quang Trung lâm trọng bệnh. Không bao lâu sau, Hoàng Đế băng hà (ngày 16 tháng 9 năm 1792), lúc mới 39 tuổi, tại vị Hoàng đế được 4 năm. Miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế. Thái tử Quang Toản lúc bấy giờ chỉ lên 10 tuổi, được triều đình tôn lên làm Vua, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh.
Đau thương trước sự ra đi quá đột ngột của Hoàng Đế Quang Trung, lúc tuổi xuân đang phơi phới, sự nghiệp đang phát triển rực rỡ, đất nước đang hồi hưng thịnh, thái bình, và tình yêu đang nồng thắm. Hoàng Hậu Ngọc Hân đã viết nên bài "Ai Tư Vãn" để khóc thương chồng. Bài thơ là áng văn tuyệt tác trong dùng văn học chữ Nôm thời Tây Sơn. Bài thơ dài đến 164 câu; xin trích một đoạn để cùng chia xẻ tâm tình khổ đau của bà trước sự mất mát vô cùng:
"Những ao ước chập chùng tuổi học, Nguyền trăm năm ngỡ được vầy vui... Nào hay sông cạn, bể vùi, Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly! Từ rằng hạ mưa thu trái tiết, Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên... Xiết bao kinh sợ lo phiền, Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cần! Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước, Phương pháp nào đổi được cùng chăng? Ngàn thay, máy tạo bất bằng, Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan! Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bầy, Kể sum vầy đã mấy năm nay... Lênh đênh chút phận bèo mây, Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu? Trằn trọc luồng đêm thân, ngày tối, Biết cậy ai dập nỗi bi thương? Trông mong luống những mơ màng... Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say! Khi trận gió hoa bay thấp thoáng, Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi... Vội vàng dạo bước tới nơi, Thương ôi vắng vẻ, giữa trời tuyết sa! Tưởng phong thể xót xa tòi toạn, Mặt rồng sao cách gián lâu nay? Có ai chốn ấy về đây... Nguồn cơn xin ngỏ cho huy được đành? Nẻo u minh khéo chịu đôi ngả... Nghĩ đòi phen nồng nỏ - đỏi phen, Kiếp này chưa trọn chữ "duyên"; Ước xin kiếp khác ven tuyền lửa hương!"
(Trích thơ Ngọc Hân công chúa)
Thanh Tùng